The Economist

Phạm Vũ Lửa Hạ dịch

Vào tháng 12 năm 2018, những nhân vật hiếu chiến bài Trung trong chính quyền Trump thúc giục áp dụng một loạt biện pháp trừng phạt mới trong tuần lễ được một số người gọi trong nội bộ với nhau là “Tuần lễ Đả phá Trung Quốc” (“Fuck China Week”), theo một cuốn sách mới của Bob Davis và Lingling Wei. Nhưng chuyện đó chẳng nhằm nhò gì so với những diễn biến trong tháng 7 năm 2020.

Trong những tuần vừa qua, Mỹ đã áp dụng chế tài với một số quan chức cao cấp Trung Quốc, trong đó có một ủy viên Bộ chính trị, vì họ có can dự vào những trò tàn bạo đối với người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương; đưa thêm 11 công ty Trung Quốc vào danh sách đen của Bộ Thương mại Mỹ, vì đồng lõa trong những trò tàn bạo đó; tuyên bố rằng những tuyên bố chủ quyền rộng khắp của Trung Quốc ở Biển Đông là phi pháp; tước quy chế đặc biệt của Hong Kong về ngoại giao và thương mại; thông báo các cáo buộc hình sự đối với bốn công dân Trung Quốc bị giới chức Mỹ cho là gián điệp của Quân đội Giải phóng Nhân dân [của Trung Quốc]; và ra lệnh đóng cửa lãnh sự quán Trung Quốc ở Houston, bị cho là một ổ hoạt động gián điệp và gây ảnh hưởng – đây là lần đầu tiên Mỹ có động thái như vậy kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1979 (Trung Quốc trả đũa bằng cách đóng lãnh sự quán của Mỹ tại Thành Đô).

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy có biến ở Houston là khi các video xuất hiện trên mạng cho thấy các nhà ngoại giao Trung Quốc vội vàng đốt tài liệu trong sân lãnh sự quán — một ẩn dụ thích hợp về chuyện hơn 40 năm bang giao tan thành mây khói.

Tất thảy những chuyện này xảy ra trong thời một tổng thống Mỹ, Donald Trump, tỏ vẻ ưa thích chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, và (theo lời của cựu cố vấn an ninh quốc gia của ông John Bolton) từng nói với Tập Cận Bình rằng xây dựng các trại cải tạo người Duy Ngô Nhĩ là “chuyện đúng nên làm”. Tổng thống Trump chẳng tỏ vẻ thích thú đánh nhau với Trung Quốc ngoại trừ về thương mại và về đại dịch, để đánh lạc hướng chỉ trích về cách ông ứng phó với COVID-19. Nhưng khi sắp hết thời gian trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông — và có lẽ chức tổng thống của ông — các quan chức hiếu chiến xung quanh ông đang cố gắng xác lập một lập trường có tính đối đầu hơn cách Mỹ đã áp dụng kể từ trước khi Richard Nixon sang Trung Quốc cách đây gần nửa thế kỷ.

Hôm 23 tháng 7, tại Thư viện Tổng thống Nixon ở California, ngoại trưởng Mike Pompeo kết thúc loạt bốn bài phát biểu trong bốn tuần của các quan chức hàng đầu khắc họa chế độ Trung Quốc là mối đe dọa lớn nhất cho tự do và dân chủ toàn cầu. Cố vấn an ninh quốc gia Robert O’Brien, giám đốc FBI Christopher Wray, bộ trưởng tư pháp William Barr, và ngoại trưởng Pompeo lập luận rằng Trung Quốc muốn xuất khẩu ý thức hệ và “tư tưởng kiểm soát” của mình ra khỏi biên giới của mình. Họ mắng các lãnh đạo công ty và các hãng phim Hollywood vì đã quỵ lụy Bắc Kinh, cảnh báo về hoạt động gián điệp Trung Quốc rộng khắp ở Mỹ và cho rằng Tập Cận Bình đang tiến hành cuộc chinh phạt mấy thập niên để giành “quyền bá chủ toàn cầu”. Ngoại trưởng Pompeo nói rằng Mỹ và các đồng minh của mình phải thúc ép Trung Quốc thay đổi, bằng không sẽ có nguy cơ nhượng thế kỷ 21 cho viễn kiến chuyên chế độc tài của Tập Cận Bình. “Mẫu hình can dự mù quáng với Trung Quốc chẳng thể đạt được điều đó,” ông nói. “Nếu chúng ta nay quỳ gối, con của con chúng ta có thể bị Đảng Cộng sản Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn.”

Không được nêu tên trong những bài phát biểu này — nhưng là một tấm phông tất yếu cho chúng — là Joe Biden và chiến dịch tranh cử tổng thống. Chiến dịch tranh cử của ông Trump muốn khắc họa ứng cử viên được cho là sẽ do Đảng Dân chủ đề cử là người nhu nhược về Trung Quốc, cho rằng ông Biden khi làm phó tổng thống đã đánh giá thấp mối đe dọa này. Một quan chức cao cấp trong chính quyền Mỹ nói rằng một phần của các tính toán dẫn tới những hành động gần đây là để đẩy quan hệ Trung-Mỹ vào một quỹ đạo mà sẽ khó đảo ngược bất kể ai đắc cử vào tháng 11 sắp tới. Một số quan chức tin rằng họ đã sắp đạt mục tiêu này, nhờ sự đồng thuận của cả hai đảng nhìn chung có tính hiếu chiến ở Quốc hội; Quốc hội Mỹ đã thông qua luật cứng rắn để phản ứng lại cách đối xử với người Duy Ngô Nhĩ và Hong Kong. Những hành động của chính Đảng Cộng sản Trung Quốc — biến Tân Cương thành một trại tập trung và tước chế độ pháp trị của Hong Kong — đã gần như chắc chắn bảo đảm rằng Mỹ không thể quay lại trọn vẹn với mối bang giao cũ với Trung Quốc.

Tuy nhiên, một số nhân vật hiếu chiến bên ngoài chính quyền, trong đó có một vài người nói họ sẽ bầu ông Biden, lo ngại rằng ông sẽ ít đối đầu hơn với Tập Cận Bình do ông muốn Trung Quốc hợp tác về các vấn đề như biến đổi khí hậu và kiểm soát vũ khí hạt nhân. Nhiều người trong những cố vấn chính sách đối ngoại của ông hẳn nhiên là các nhân vật kỳ cựu từ chính quyền Obama. Giới hiếu chiến chế nhạo như vậy là quá dễ dãi tạo điều kiện thuận lợi để Trung Quốc vươn lên chỉ vì những thứ như Hiệp định Paris chẳng hạn. Nếu thắng cử, liệu chính quyền Biden cũng sẽ nhu nhược hơn?

Trang: 1; 2

2 thoughts on “Liệu một chính quyền Biden có nhu nhược hơn Trump về Trung Quốc?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.